1. Vàng da sơ sinh là gì?
Vàng da là do sự tăng nồng độ chất bilirubin trong máu (bilirubin gián tiếp hoặc bilirubin trực tiếp) dẫn đến da hoặc mắt có màu vàng. Ở hầu hết trẻ sơ sinh, vàng da là hiện tượng sinh lý do tăng phá hủy hồng cầu phôi thai, giảm chức năng của các men chuyển hóa do gan sản xuất và tăng chu trình ruột gan.
Vàng da sơ sinh có thể ở mức độ nhẹ (vàng da sinh lý) nhưng cũng có khi tiến triển nặng (vàng da bệnh lý). Nếu không phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh có nguy cơ để lại biến chứng nhiễm độc thần kinh (bệnh lý não cấp và mạn do bilirubin), do bilirubin gián tiếp thấm vào não. Hậu quả là trẻ sẽ tử vong hoặc bị di chứng não suốt đời.
1.1 Vàng da sinh lý thường xảy ra ở thời điểm nào
Trẻ sơ sinh có hiện tượng vàng da sinh lý do tăng phá huỷ hồng cầu phôi thai, chức năng gan của trẻ còn kém, đồng thời khả năng bài tiết mật của gan cũng chưa trưởng thành.
Vàng da sinh lý thường xuất hiện sau ngày thứ 3. Vàng da sinh lý không cần can thiệp y tế. Chỉ cần cho trẻ bú sữa mẹ đầy đủ, cơ thể sẽ đào thải bilirubin ra ngoài. Thông thường, trẻ sơ sinh sẽ hết vàng da trong vòng 1 tuần đối với trẻ sinh đủ tháng và 2 tuần đối với trẻ sinh non tháng. Vàng da ở mức độ nhẹ, trẻ chỉ vàng da vùng mặt, cổ, ngực và vùng bụng phía trên rốn và trẻ bú tốt, khỏe mạnh.
Vàng da đơn thuần, không kết hợp các triệu chứng bất thường khác như thiếu máu, gan lách to, bỏ bú, li bì,…
1.2 Vàng da bệnh lý
Vàng da được coi là bệnh lý khi vàng da xuất hiện sớm, vàng da tiến triển nhanh, mức độ vàng nhiều và thường kèm các triệu chứng bệnh lý khác.
Vàng da xuất hiện trong 3 ngày đầu, đặc biệt trong vòng 24 giờ đầu sau sinh. Không chỉ xuất hiện ở vùng mặt, cổ ngực, vùng bụng phía trên rốn mà còn lan nhanh đến đùi hoặc cẳng chân, bàn chân trong những ngày đầu sau sinh. Tình trạng vàng da thường kéo dài trên 14 ngày đối với trẻ sinh đủ tháng và trên 21 ngày đối với trẻ sinh non tháng.
Da màu vàng mạnh hơn (vàng xạm, không tươi hoặc vàng chanh), hoặc nếu kết mạc mắt xuất hiện màu vàng. Vàng da kèm theo các triệu chứng bất thường khác như: trẻ bỏ bú, bú kém hoặc nôn trớ, sốt, trẻ ngủ khó đánh thức, bứt rứt hoặc kích thích, gồng cứng hoặc co giật (khi bệnh rất nặng).
2. Cách phát hiện vàng da ở trẻ sơ sinh
Cần quan sát da trẻ hàng ngày, đặc biệt trong vòng hai tuần đầu sau sinh. Nên quan sát ở nơi có ánh sáng tự nhiên vì nếu nhìn dưới ánh sáng đèn thì tình trạng vàng da có thể nặng hơn hoặc nếu thiếu ánh sáng thì không thể phát hiện được vàng da. Mẹ hoặc người chăm sóc trẻ dùng tay ấn nhẹ lên da từ 2-5 giây, ở ngực, bụng, đùi, cẳng chân, bàn chân của trẻ, khi thả tay ra vùng da đó có màu vàng thì khả năng trẻ có vàng da. Vị trí vàng da thường sẽ xuất hiện từ mặt, đến trên rốn, đến đùi, đến cẳng chân (tay), đến bàn chân. Mức độ vàng da có thể từ nhẹ, vừa đến rõ đậm.
3. Nguyên nhân gây vàng da
- Tăng sản xuất bilirubin: Bilirubin dư thừa (tăng bilirubin trong máu) là nguyên nhân chính gây ra vàng da. Bilirubin là sắc tố có màu vàng cam, được hình thành trong quá trình phá vỡ hồng cầu bình thường trong máu. Các nguyên nhân gây tăng sản xuất bilirubin trong máu trẻ bao gồm: Bất đồng nhóm máu mẹ con, thiếu men G6PD, Thalassemia,….
- Giảm chức năng chuyển hóa bilirubin
- Tăng tái hấp thu bilirubin từ ruột
4. Hậu quả nếu vàng da sơ sinh không được phát hiện và chữa trị kịp thời
Vàng da là một triệu chứng thường gặp ở trẻ sơ sinh do nhiều nguyên nhân gây nên. Hầu hết các trường hợp trẻ vàng da sinh lý có hàm lượng bilirubin trong máu thấp nên không nguy hại và không cần điều trị. Cần chú ý theo dõi xử trí kịp thời các trường hợp vàng da nặng để tránh nguy cơ tổn thương não ảnh hưởng đến sự phát triển tinh thần, vận động của trẻ.
Một số biến chứng nặng
– Bệnh não cấp do tăng bilirubin:
+ Giai đoạn sớm: trẻ vàng da nhiều, ngủ gà, giảm trương lực cơ, bú kém.
+ Giai đoạn trung gian: trẻ lừ đừ, dễ bị kích thích và tăng trương lực cơ, có thể sốt, khóc the thé hay lơ mơ và giảm trương lực cơ, tăng trương lực cơ biểu hiện bằng ưỡn cổ và thân. Thay máu trong giai đoạn này trong một số trường hợp có thể cải thiện được các biểu hiện thần kinh.
+ Giai đoạn nặng : hệ thần kinh bị tổn thương và không hồi phục được, biểu hiện bằng tư thế ưỡn cổ – ưỡn người, khóc the thé, không bú được, có cơn ngưng thở, hôn mê, một số trường hợp co giật và tử vong.
– Bệnh não mạn do tăng bilirunin (vàng da nhân): trẻ có biểu hiện của bại não thể múa vờn, rối loạn thính lực, loạn sản răng, mắt nhìn trần, hiếm gặp thiểu năng trí tuệ và các tàn tật khác.
5. Các phương pháp điều trị vàng da
– Chiếu đèn:
Chiếu đèn là phương thức điều trị được sử dụng rộng rãi, an toàn và hiệu quả nhất để làm giảm nồng độ Bilirubin gián tiếp trong máu và phòng ngừa bệnh não cấp do tăng Bilirubin ở trẻ sơ sinh trong giai đoạn đầu sau sinh. Mục đích của chiếu đèn là để chuyển bilirubin tự do thành bilirubin tan trong nước và thải ra ngoài qua đường niệu và đường mật xuống phân.
– Thay máu:
Được chỉ định khi vàng da nặng đến lòng bàn tay, bàn chân (< 1 tuần) + bắt đầu có biểu hiện thần kinh, hoặc mức Bilirubin máu tăng cao > 20 mg% + bắt đầu có biểu hiện thần kinh ( li bì, bú kém).
6. Theo dõi chăm sóc tại nhà
– Bú mẹ tích cực
– Không nằm buồng tối liên tục, quan sát màu da trẻ dưới ánh sáng mặt trời mỗi ngày.
– Tắm nắng buổi sáng: Ánh sáng mặt trời chỉ có thể giúp trẻ bị vàng da nhẹ mau hết hơn nhưng không thể điều trị kịp các trường hợp vàng da sơ sinh nặng. Đối với các trẻ mới vàng da nhẹ thì có thể tắm nắng ấm mỗi sáng, nhưng nếu trẻ đã vàng da nhiều thì cần phải nhanh chóng đưa trẻ đi khám bác sĩ chuyên khoa để được tư vấn và điều trị kịp thời.
– Theo dõi tiến triển màu của da và phát hiện sớm các dấu hiệu bệnh nặng để thời đưa trẻ đến cơ sở y tế.
Khoa Nhi – BVĐK Sài Gòn Nha Trang quy tụ các BS có chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm điều trị các bệnh lý ở trẻ sơ sinh, hồi sức trẻ sinh non như: Ths. BS Lê Thị Hải Yến, BS CKI Nguyễn Hữu Nhân,… Cùng hệ thống trang thiết bị hiện đại như: Đèn chiếu vàng da sơ sinh, Lồng ấp trẻ sơ sinh, hệ thống máy thở cao cấp chuyên dụng cho trẻ sơ sinh… giúp điều trị thành công cho hàng ngàn trẻ sơ sinh mắc các bệnh lý về hô hấp, vàng da, chăm sóc trẻ sinh non… giúp trẻ phát triển tốt và tránh được các biến chứng về sức khỏe sau này.